Real Madrid được mệnh danh là một trong những đội bóng vĩ đại nhất trên thế giới. Với biệt danh Los Blancos, Real Madrid đã ghi dấu ấn lịch sử với nhiều thành tích lẫy lừng. Mời bạn cùng LangTucCau điểm lại hành trình lịch sử cùng những thành tích thi đấu khủng của đội bóng này nhé!
Lịch sử đội bóng Real Madrid
Giai đoạn 1897 - 1945: Những năm đầu tiên
Real Madrid sơ khai là câu lạc bộ bóng đá Sky. Câu lạc bộ bóng đá Sky được thành lập vào năm 1897 bởi những giảng viên và sinh viên của Học viện Tự do. Họ là những người đến từ Oxford và Cambridge. Sau khi thành lập câu lạc bộ, họ thường tổ chức thi đấu vào sáng Chủ Nhật tại Moncloa.
Đến năm 1900, câu lạc bộ Sky được tách ra làm hai là Madrid mới và Club Español de Madrid. Khoảng hơn 2 năm sau đó vào ngày 6/3/1902, câu lạc bộ bóng đá thành Madrid chính thức được thành lập. Trong vòng 3 năm hoạt động, Madrid FC đã có được thành tuju đầu tiên trong trận chung kết Cúp Nhà Vua Tây Ban Nha, đánh bại được Athletic Bilbao vào năm 1905. Lúc này, câu lạc bộ cũng trở thành một trong những thành viên đầu tiên nằm trong Liên đoàn bóng đá Hoàng gia của Tây Ban Nha, được thành lập vào ngày 4/1/1909.
Năm 1912, đội bóng chuyển sang sử dụng sân Campo de O'Donnell. Đến năm 1920, câu lạc bộ chính thức đổi tên thành Real Madrid. Cũng là tên đội bóng hiện tại. Ngay sau khi giải Vô địch Quốc gia Tây Ban Nha được thành lập, đội bóng đã dẫn đầu mùa giải đầu tiên cho đến trận cuối. Sau cùng Real Madrid thất bại trước Athletic Bilbao, đứng vị trí thứ 2 sau đội Barcelona. Vào mùa giải 1931 - 1932, đội bóng đạt kỷ lục chức Vô địch Quốc gia hai năm liên tiếp.
Năm 1938, nền Cộng hòa ở Tây Ban Nha xuất hiện và Real Madrid phải đổi tên thành Madrid FC. Trong thời chiến tranh Thế giới thứ 2, đội bóng bị giới hạn nhưng vẫn đạt được thành tích đáng nể. Năm 1943, họ đánh bại Barcelona đến 11–1 trong điều kiện áp lực chính trị.
Giai đoạn 1945 - 1978: Santiago Bernabéu Yeste mang đến loạt thành công ở châu Âu
Năm 1945, Santiago Bernabéu Yeste lên chức chủ tịch của Real Madrid. Ông đã mang đến nhiều sự thay đổi cho đội bóng từ cơ sở vật chất đến con người. Ông cho phép tu sửa lại sân nhà và sân tập. Đồng thời đưa về đội bóng loạt ngôi sao bóng đá nổi tiếng thể giới, trong đó có Alfredo Di Stéfano. Có thể nói giai đoạn này, đội Real Madrid trở thành một trong những đội bóng Tây Ban Nha hùng mạnh và có vị thế đứng trong toàn châu Âu.
Từ năm 1956 đến 1960, đội bóng đoạt được 5 Cúp châu Âu. Mùa giải 1965 - 1966 đội bóng tiếp tục giành chiếc cúp thứ 6. Một điểm nổi bật trong mùa giải lần này là đội hình Real Madrid tham gia đều có chung quốc tịch. Nhiều người gọi đây là thế hệ Ye-yé. Họ là Á quân của các kỳ Cúp châu Âu năm 1962 và năm 1064.
Đến năm 1970, đội bóng đạt thêm 5 danh hiệu La Liga và 3 Cúp nhà Vua. Lần đầu tiên vào năm 1971, Real Madrid lọt vào chung kết UEFA Cup.
Giai đoạn 1987 - 1985: Kỷ nguyên của De Carlos
Sau khi chủ tịch câu lạc bộ Santiago Bernabéu qua đời, Luis de Carlos là thủ quỹ câu lạc bộ đã từ chức để tranh chức chủ tịch. Ông đưa đội bóng về lại thi đấu trên sân nhà Alfredo Di Stéfano để chờ cải tạo Santiago Bernabéu.
Năm 1984, cái tên Emilio Butragueño như một huyền thoại bóng đá ở châu Âu với những màn trình diễn đầy ấn tượng. Dưới sự dẫn dắt của Butragueño, Real Madrid đã giành được Cúp C1 châu Âu năm 1985 và UEFA năm 1986.
Giai đoạn 1980 - 2000: Quinta del Buitre và chiếc Cúp châu Âu thứ 7
Sau thành công của mùa giải 1985 - 1986, Real Madrid dần mất đi vị thế của mình. Mãi đến đầu năm 1980, thế hệ cầu thủ “Năm con kền kền” của Real Madrid là Emilio Butragueño, Manuel Sanchís, Martín Vázquez, Míchel và Miguel Pardeza đã mang đến đội hình xuất sắc. Cùng với những ngôi sao khác của đội bóng, Real Madrid xuất sắc giành được 2 cúp UEFA, 5 La Liga, 1 Cúp Nhà vua và 3 Siêu cúp Tây Ban Nha. Tuy nhiên chỉ sau 10 năm sau đó nhóm tan rã.
Đến năm 1996, huấn luyện viên HLV Fabio Capello và các ngôi sao mới như Roberto Carlos, Mijatović, Šuker và Seedorf giúp Real Madrid giành Cúp châu Âu thứ 7. Chiến thắng này kết thúc 32 năm chờ đợi. Đến năm 1988, dưới sự dẫn dắt của Jupp Heynckes, đội bóng áo trắng Real Madrid đã đánh bại Juventus 1–0 trong trận chung kết với bàn thắng của Mijatović.
Tháng 12 năm 2000, Real Madrid được bầu chọn là câu lạc bộ xuất sắc nhất châu Âu thế kỷ XX với 42.35% số phiếu. Kết quả này vượt xa đối thủ. Điều này cũng đánh dấu kết thúc cho một chặng đường lịch sử đầy thành công và thách thức của Real Madrid.
Giai đoạn 2000 - 2006: Dải ngân hà Los Galácticos
Tháng 7 năm 2000, Florentino Pérez đắc cử chủ tịch Real Madrid. Ông hứa xóa nợ 270 triệu Euro của câu lạc bộ và tạo ra dải ngân hà Galáctico. Đội hình với sự góp mặt của Luís Figo, Zinédine Zidane, Ronaldo, Roberto Carlos, Raúl và David Beckham. Tuy vậy, Real Madrid chỉ đạt được 1 UEFA Champions League và 1 La Liga trong ba mùa.
Vào năm 2003, sau chiến thắng La Liga, Perez gây sốc với việc sa thải HLV del Bosque và đưa Beckham về. Fernando Hierro và Steve McManaman rời khỏi tạo nên bầu không khí căng thẳng. Mùa giải mới với huấn luyện viên Carlos Queiroz bắt đầu nhạt nhòa. Vào tháng 2 năm 2006, Perez đã từ chức đánh dấu kết thúc thời kỳ Los Galácticos 1.0.
Giai đoạn 2006 - 2009: Thời chủ tịch Ramón Calderón
Tháng 7/2006, Ramón Calderón đắc cử chủ tịch Real Madrid. Ông cũng chỉ định Fabio Capello trở thành huấn luyện viên mới và Predrag Mijatović lên chức Giám đốc thể thao. Tháng 4/2007, lần đầu tiên Real Madrid đoạt được danh hiệu La Liga sau cuộc đua gay cấn với đội Barcelona. Trận đấu với Zaragoza và cú hattrick của Van Nistelrooy giúp họ đăng quang khiến Cibeles trở thành nơi ăn mừng.
Mùa giải 2007 - 2008, Real Madrid đã bảo vệ thành công danh hiệu La Liga và vượt mặt cả Barcelona. Trong trận Siêu kinh điển, họ giành chiến thắng 1-0 tại Camp Nou và thắng 4-1 ở Bernabéu. Tuy nhiên, thất bại trước Mallorca ở Cúp Nhà Vua và trước Roma ở Champions League khiến họ chỉ có thể tiến đến vòng 1/8.
Mùa giải 2008 - 2009, Real Madrid thua trận siêu kinh điển 0-2 và thất bại một cách thảm hại với tỉ số 2-6 trước đội Barcelona tại Bernabéu. Họ sớm bị loại khỏi Cúp Nhà Vua bởi Real Union và thất bại tổng cộng 0-5 trước Liverpool ở Champions League. Mùa giải này kết thúc mờ nhạt và trắng tay trước đại kình địch Barcelona.
Giai đoạn 2009 - 2019: Dải ngân hà Los Galácticos 2.0
Ngày 1/6/2009, Florentino Pérez quay trở lại Real Madrid với vị trí chủ tịch. Với chính sách Galácticos", đội bóng chiêu mộ được hai ngôi sao Kaká và Cristiano Ronaldo với giá kỷ lục. Tuy nhiên, mùa giải 2009 - 2010 lại kết thúc thất bại, Real chỉ đứng vị trí thứ 2 tại La Liga và bị loại khỏi Champions League.
Tháng 5/2010, José Mourinho làm huấn luyện viên của đội bóng. Năm 2011, Real chơi bốn trận El Clásico trong 18 ngày và kết thúc với chiến thắng ở Copa del Rey. Tuy nhiên đội bóng lại thất bại trước Barcelona ở Champions League. Mùa giải 2011 - 2012, Real Madrid đoạt La Liga với 100 điểm và nhiều kỷ lục khác.
Dưới sự dẫn dắt của Carlo Ancelotti từ năm 2013, Real giành "La Décima" Champions League vào năm 2014. Mùa giải 2014 - 2015 thì có Gareth Bale gia nhập, Ancelotti rời bỏ. Trong mùa giải này Real không giữ được danh hiệu nào và kết thúc với sự ra đi của nhiều cầu thủ chủ chốt.
Giai đoạn 2019 - Nay: Dải ngân hà Los Galácticos 3.0
Tháng 3/2019, Zidane trở lại dẫn dắt đội bóng Real Madrid và mở đầu cho thời kỳ "Dải ngân hà 3.0". Vào mùa hè, Madrid chiêu mộ nhiều tài năng mới như Hazard, Jović, Militão, Mendy, Rodrygo, Reinier với tổng giá trị hơn 350 triệu Euro. Đầu năm 2020, Real Madrid giành Siêu cúp Tây Ban Nha lần thứ 11 sau khi vượt qua Atlético Madrid trong loạt sút luân lưu. Đến tháng 6 thì gặp gián đoạn với dịch Covid, tuy vậy đội bóng vẫn đạt được chiến thắng với 10 trận đấu liên tiếp và giành chức vô địch La Liga lần thứ 34.
Mùa giải 2020 - 2021, sânSantiago Bernabéu đang được cải tạo, Madrid tạm chuyển sang Sân vận động Alfredo Di Stéfano. Cũng thời điểm này, huấn luyện viên Zidane rời đi lần thứ hai, Ancelotti trở lại.
Mùa giải tiếp theo, Ancelotti đưa đội vô địch Siêu cúp Tây Ban Nha và La Liga. Trong Champions League, họ vượt qua PSG, Chelsea, Man City và giành chức vô địch lần thứ 14 trước Liverpool. Đến đầu mùa giải 2022 - 2023, Real Madrid giành Siêu cúp châu Âu lần thứ 5 và FIFA Club World Cup lần thứ 5, đánh bại Eintracht Frankfurt và Al Hilal. Họ cũng đoạt Cúp Nhà vua Tây Ban Nha. Tại La Liga, đội về nhì và dừng bước ở Champions League ở vòng bán kết trước Man City.
Thành tích của Real Madrid
Ra đời hơn một thế kỷ, đội bóng Real Madrid đã đánh dấu được tên tuổi của mình với nhiều thành tựu ấn tượng. Dưới đây là tổng quan một số thành tựu của đội bóng này đạt được:
Châu Âu: 14 lần vô địch UEFA Champions League, 2 lần vô địch UEFA Cup, 4 lần vô địch Siêu Cúp Châu Âu, và 3 lần vô địch Cúp Liên Lục Địa - chứng tỏ sức mạnh và đẳng cấp hàng đầu trên lục địa.
Quốc tế: 4 lần vô địch FIFA Club World Cup, xác nhận vị thế của Real Madrid là một trong những đội bóng xuất sắc nhất thế giới.
Tây Ban Nha: 35 lần vô địch La Liga, 19 lần vô địch Copa del Rey, 12 lần vô địch Siêu Cúp Tây Ban Nha - là biểu tượng của sự thống trị trong bóng đá Tây Ban Nha.
Real Madrid được FIFA công nhận là câu lạc bộ xuất sắc nhất thế kỷ XX. Đây cũng là đội duy nhất sở hữu chiếc cúp phiên bản gốc UEFA Champions League.
Danh hiệu chính thức
Quốc gia
Tên giải thưởng | Số lần | Mùa giải |
La Liga | 35 lần (kỷ lục) | 1931/32; 1932/33; 1953/54; 1954/55; 1956/57; 1957/58; 1960/61; 1961/62; 1962/63; 1963/64; 1964/65; 1966/67; 1967/68; 1968/69; 1971/72; 1974/75; 1975/76; 1977/78; 1978/79; 1979/80; 1985/86; 1986/87; 1987/88; 1988/89; 1989/90; 1994/95; 1996/97; 2000/01; 2002/03; 2006/07; 2007/08; 2011/12; 2016/17; 2019/20; 2021/22 |
Copa del Rey | 20 lần | 1904/05; 1905/06; 1906/07; 1907/08; 1916/17; 1933/34; 1935/36; 1945/46; 1946/47; 1961/62; 1969/70; 1973/74; 1974/75; 1979/80; 1981/82; 1988/89; 1992/93; 2010/11; 2013/14; 2022/23 |
Siêu Cúp Tây Ban Nha Supercopa de España | 12 lần | 1988; 1989; 1990; 1993; 1997; 2001; 2003; 2008; 2012; 2017; 2019-20; 2021-22 |
Cúp Liên đoàn bóng đá Tây Ban Nha Copa de la Liga | 1 lần | 1984/85 |
Siêu Cúp Tây Ban Nha Copa Eva Duarte | 1 lần | 1947 |
Quốc tế
Tên giải thưởng | Số lần | Mùa giải |
UEFA Champions League/Cúp C1 | 14 lần (kỷ lục) | 955/56, 1956/57, 1957/58, 1958/59, 1959/60, 1965/66, 1997/98, 1999/00, 2001/02, 2013/14; 2015/16, 2016/17, 2017/18, 2021/22 |
UEFA Cup | 2 lần | 1985, 1986 |
UEFA Super Cup/Siêu cúp bóng đá châu Âu | 5 lần (kỷ lục) | 2002, 2014, 2016, 2017, 2022 |
Intercontinental Cup | 3 (kỷ lục của Tây Ban Nha) | 1960, 1998, 2002 |
FIFA Club World Cup | 5 lần (kỉ lục) | 2014, 2016, 2017, 2018, 2022 |
Giải thưởng khác
Bên cạnh những thành tích đó thì Real Madrid cũng sở hữu cho mình kho giải thưởng khác đồ sộ như:
Tên giải thưởng | Số lần | Mùa giải |
Cúp Santiago Bernabéu | 26 | 1981; 1983; 1984; 1985; 1987; 1989; 1991; 1994; 1995; 1996; 1997; 1998; 1999; 2000; 2003; 2005; 2006; 2007; 2008; 2009; 2010; 2011; 2012; 2013; 2015; 2016 |
Cúp Latin | 2 | 1955; 1957 |
Cúp Bách niên AC Milan | 1 | 2000 |
Cúp Thế giới Nhỏ | 2 | 1952; 1956 |
Cúp Teresa Herrera | 9 | 1949; 1953; 1966; 1976; 1978;1979; 1980; 1994; 2013 |
Cúp Thành phố Barcelona | 3 | 1983; 1985; 1988 |
Cúp Ramón de Carranza | 6 | 1958; 1959; 1960; 1966; 1970; 1982 |
Cúp Benito Villamarín | 1 | 1960 |
Cúp Thành phố La Línea | 5 | 1978; 1981; 1982; 1986; 2000 |
Cúp Ciutat de Palma | 3 | 1975; 1980; 1983; 1990 |
Cúp Euskadi Asegarce | 3 | 1994; 1995; 1996 |
Cúp Colombino | 3 | 1970; 1984; 1989 |
Cúp Thành phố Vigo | 2 | 1951; 1982 |
Cúp Cam (Orange Cup) | 2 | 1990; 2003 |
Cúp Mohamed V | 1 | 1966 |
Cúp Thành phố Caracas | 1 | 1980 |
Cúp Iberia | 1 | 1994 |
Cúp Mancomunado | 5 | 1931/32; 1932/33; 1933/34; 1934/35; 1935/36 |
Cúp Año Santo Compostelano | 1 | 1970 |
Guinness International Champions Cup | 3 | 2013; 2015 (2 lần - ICC Australia, ICC China) |